Giải Mã Những Bí Mật Của Tù Binh Phi Công Mỹ Tại Nhà Tù Hỏa Lò

Thứ năm - 02/01/2025 10:51
Các bạn thân mến, trong kháng chiến chống Mỹ, trong suốt hàng chục năm nhà tù Hỏa Lò đã được coi là một trong những khu vực được bảo vệ một cách nghiêm ngặt và bí mật nhất ở thủ đô Hà Nội. Lý do đơn giản bởi đó là nơi đã từng giam giữ hàng trăm Phi công Mỹ bị bắt trong chiến tranh Việt Nam.
  1. Trước Tiên Chúng Ta Cùng Nhau Tìm Hiểu Đôi Nét Về Nhà Tù Hỏa Lò

Nhà tù Hỏa Lò nằm ngay trung tâm Thành phố Hà Nội, được Pháp xây dựng từ những năm 1896 nhằm giam giữ những người đấu tranh chống chế độ thực dân. Theo một số tài liệu còn lưu trữ tại đây thì nhà tù Hỏa Lò vốn có tên là Đề lao Trung ương nhưng do nó được xây trên đất của làng Phụ Khánh, tổng Vĩnh Xương cũ. Đây là một làng nghề chuyên sản xuất đồ gốm, ngày ngày đều rực lửa lò nung, vì thế làng này còn có tên gọi khác là Hỏa Lò và nhà tù ở đây cũng được gọi là nhà tù Hỏa Lò. Bên cạnh nhà tù là tòa Đại hình và sở Mật thám, cả khuôn viên tạo thành thế chân kiềng, sẵn sàng đàn áp phong trào Cách mạng của nhân dân ta lúc bấy giờ.

Hỏa Lò được đánh giá là một trong những công trình kiên cố vào loại bậc nhất Đông Dương do người Pháp đã xây dựng nên. Bao quanh nhà tù là bức tường bằng đá, bê tông cốt thép cao đến 4 mét, dày 0,5m, được gia cố bởi một hệ thống dây thép gai dày đặc lại có dòng điện cao thế chạy qua, bốn góc là những tháp canh có khả năng quan sát nhất cử nhất động của toàn bộ trại giam. Riêng hệ thống cửa sắt và các khóa phòng giam thì đều được mang từ Pháp sang.

Nhiều thế hệ người Việt Nam yêu nước đã từng bị giam cầm tại nhà tù Hỏa Lò, trong đó có thể kể đến các nhà nho yêu nước như cụ Phan Bội Châu, Lương Văn Can, Dương Bá Trạc đến các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười.

Tổng diện tích của nhà tù Hỏa Lò trước đây rộng gần 13.000 mét vuông, nếu nhìn từ trên cao xuống thì  khu đất này có dạng hình thang. Ngày nay, di tích nhà tù Hỏa Lò chỉ còn lại một góc nhỏ bằng khoảng 1/5 diện tích cũ trước đây nằm giáp với phố Hoả Lò.  Phần lớn diện tích nhà tù đã bị phá đi để nhường chỗ cho việc xây dựng một tòa tháp có tên tiếng Anh là Hanoi Towers.

Cũng chính bởi sự kiên cố của nhà tù Hỏa Lò và vị trí của nó nằm ngay giữa lòng Thủ đô Hà Nội, nên trong cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của Mỹ ra miền Bắc Việt Nam, Hỏa Lò đã được sử dụng để giam giữ hàng trăm tù binh Phi công Mỹ bị lực lượng phòng không của ta bắn rơi và bắt sống. 

Theo Đại tá Trần Trọng Duyệt nguyên Trại trưởng cuối cùng của Trại tù binh Hỏa Lò và là người được chứng kiến những ngày toàn bộ tù binh được ta trao trả cho phía Mỹ theo Hiệp định Paris, ông nhớ lại, trong thời gian chiến tranh, tại thủ đô Hà Nội, tù binh Phi công Mỹ được giam giữ chủ yếu ở ba địa điểm chính: một là khu vực Fafim thuộc đường Nguyễn Trãi bây giờ, tiếng lóng của những tù binh Phi công Mỹ họ gọi địa điểm này là “Sở Thú”, thứ hai là số nhà 17 phố Lý Nam Đế, Phi công Mỹ gọi nơi đây là “Đồn Điền” và thứ ba là Hỏa Lò, còn được tù binh Mỹ gọi hài hước là “Khách sạn Hilton”, hay “Khách sạn Vỡ Tim”. Sau vụ đột kích bằng đường không của lực lượng đặc nhiệm Mỹ, nhằm giải cứu cho số tù binh bị giam giữ ở trại Sơn Tây nhưng không thành công, các tù binh Mỹ khi đó đang được giam giữ ở nhiều nơi đã được ta đưa toàn bộ về Hỏa Lò, làm cho số lượng ở đây càng tăng lên, khiến cho một số phòng giam gần như bị  “quá tải”.

 Cơ cấu tổ chức của trại tù binh Hỏa Lò gồm tổng cộng chỉ khoảng 60 cán bộ chiến sĩ. Trong đó, có một Tổ Quản giáo kiêm làm nhiệm vụ  Phiên dịch, bộ phận này gồm từ 5 đến 7 cán bộ, một Tổ Bảo vệ chuyên làm nhiệm vụ dẫn giải tù binh đi làm việc và phục vụ mọi sinh hoạt, hai Tiểu đội Hậu cần - Cấp dưỡng được chia ra làm 2 bộ phận: một bộ phận phục vụ cho ta, còn bộ phận kia chuyên phục vụ tù binh Mỹ và có quản lý riêng, ngoài ra còn có một Trung đội Cảnh vệ gác vòng ngoài khoảng 20 đến 25 người, Đó là chưa tính các đơn vị phối hợp. Ví dụ để đề phòng đối phương có thể đột kích bằng đường không giải thoát tù binh, chúng ta đã bố trí một lực lượng phòng không dày đặc trên các tòa nhà cao tầng ở xung quanh khu vực Hỏa Lò. Lực lượng này sẵn sàng bắn hạ máy bay bay thấp và máy bay trực thăng cứu hộ. Ngoài ra, còn có những đơn vị bộ binh, Công an vũ trang, thậm chí còn có cả xe tăng, thiết giáp luôn luôn trong tình thế sẵn sàng chiến đấu cao, nếu phía Mỹ dám liều lĩnh như với trại tù binh Sơn Tây năm 1970.

  1. Tù Binh Mỹ Tại Hỏa Lò Được Ăn Ngon Hơn Cán Bộ Việt Nam Lại Được Vui Chơi, Giải Trí!

Đại tá Trần Trọng Duyệt kể lại rằng:

Thời điểm bị bắt giam, các tù binh Phi công Mỹ đã được phía ta chăm sóc cẩn thận với một chế độ ăn uống rất đặc biệt. Cụ thể vào mỗi buổi sáng, họ thường được ăn bánh mì với sữa hoặc đường mà khi ấy, sữa hay đường đều được coi là những thứ hàng xa xỉ mà những người Việt Nam bình thường chỉ những khi ốm đau mới được biếu và bồi dưỡng tẩm bổ. Bữa trưa và chiều, mỗi suất ăn của họ là bánh mì kẹp trứng rán hay kẹp thịt và một bát súp thịt hầm với khoai tây, hoặc rau củ các loại. Đối với những người lính nghiện thuốc lá, mỗi ngày họ còn được phát 3 điếu Tam Đảo bao bạc, đây là thứ thuốc lá không có đầu lọc, nhưng rất quý hiếm, do miền Bắc sản xuất hồi đó.

Còn riêng đối với những ngày lễ, ngày Tết của cả Việt Nam hay của Mỹ thì tù binh còn được cho ăn tươi đặc biệt hơn ngày thường. Ngoài việc gói bánh chưng, cuốn nem rán, bộ phận làm nhiệm vụ hậu cần của trại thường mang giấy giới thiệu đi về tận Hà Bắc, hoặc Sơn Tây để mua gà tây về quay rồi chế biến món cơm rang thập cẩm, cơm có cả thịt, trứng và rau, uống với bia Trúc Bạch - thứ thức uống mà tù binh Mỹ rất ưa thích - ăn xong lại có hoa quả và bánh kẹo tráng miệng.

Để chúng ta dễ hình dung và so sánh, chúng ta có thể thấy hồi đó bộ đội ta thường có 3 chế độ ăn cơ bản:

- Đại táo là chế độ Áp dụng cho tất cả cán bộ chiến sĩ và những người có quân hàm đến Trung uý. Họ được hưởng tiêu chuẩn ăn 0,68 đồng/ngày.

- Trung táo là chế độ Áp dụng cho các sĩ quan có cấp hàm từ Thượng uý đến Trung tá họ được hưởng tiêu chuẩn ăn 0,9 đồng/ngày

- Tiểu táo là chế độ Áp dụng cho các sĩ quan cao cấp có quân hàm Thượng tá và Đại tá họ được hưởng tiêu chuẩn ăn 1,2 đồng/ngày.

Còn riêng tù binh Phi công Mỹ ở nhà tù Hỏa Lò họ được hưởng mức ăn “đặc táo”  lên tới 1,6 đồng/ngày. Với những người có thể trạng gầy yếu hay ốm đau sẽ được Ban chỉ huy trại quyết định cho ăn chế độ bồi dưỡng đặc biệt lên đến 3,2 đồng/ngày. Trong một thời gian sau đó, mức ăn còn được nâng lên tới 7 đồng/ngày. Đồng tiền ở miền Bắc ngày đó rất có giá trị: Lương tháng của đồng chí Trưởng ty Công an tỉnh là 115 đồng! Một bát phở ngon có giá 3 hào, một que kem ở bờ hồ Hoàn Kiếm trung tâm Thủ đô Hà Nội chỉ có 5 xu.

Vì được hưởng tiêu chuẩn cao, nên tù binh Mỹ thường ngày ăn không hết suất, cơm và thức ăn thừa nhiều. Ban chỉ huy trại quyết định sử dụng số thức ăn thừa đó để nuôi lợn tránh lãng phí. Thời gian cao điểm, bộ phận hậu cần của trại tù binh Hỏa Lò nuôi tới 40 con lợn béo. Khi lợn to được xuất chuồng, số thịt tăng gia và tiền bán lợn đó lại được sử dụng để bổ sung cho bữa ăn hàng ngày của tù binh.

Tất cả những điều đó là một sự cố gắng rất lớn về chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với những tù binh Mỹ. Bởi trong thời kỳ chiến tranh, đời sống nhân dân Việt Nam ta còn thiếu thốn trăm bề, rất nhiều khó khăn. Tù binh Mỹ được ăn uống đầy đủ tới mức đã khiến cho nhiều cán bộ chiến sĩ của ta phải thắc mắc: Tại sao ở nhiều nơi bộ đội và nhân dân ta còn phải ăn độn thêm khoai sắn mới đủ no, mà lại dành khẩu phần ăn quá tốn kém như vậy cho những kẻ đã từng gây bao tội ác với đồng bào? Cấp trên cũng giải thích rằng: Tù binh Mỹ là “vốn quý” và “tài sản” để sau này chúng ta có thể đấu tranh trên mặt trận ngoại giao với địch. Cán bộ chiến sĩ của trại phải xác định rõ ràng rằng chăm sóc bảo đảm tốt sức khỏe cho tù binh cũng là một nhiệm vụ rất đỗi đặc biệt!

Cựu Trại trưởng tù binh Hỏa Lò Trần Trọng Duyệt từng khẳng định rằng có lẽ trên thế giới này không có nước nào đối xử với tù binh Mỹ tốt như Việt Nam mình. Đó là nhờ truyền thống khoan hồng và nhân đạo vốn có truyền thống hàng nghìn năm của dân tộc ta. Các tù binh chẳng những được ăn ngon, mà còn được chăm sóc sức khỏe rất chu đáo trong điều kiện thời chiến còn nhiều khó khăn. Ngoài việc họ được tận tình cứu chữa vết thương do nhảy dù sau khi máy bay bị bốc cháy, các tù binh đã được những bác sĩ giỏi nhất ở các bệnh viện của quân đội ta đến khám và chữa bệnh theo định kỳ. Cho nên, sau cú sốc thần kinh ban đầu lúc họ bị bắt, khi đã vào trại Hỏa Lò hầu hết các tù binh Mỹ đều ổn định tinh thần và sức khỏe lên nhanh chóng. Ở nhà tù Hỏa Lò lúc đó các tù binh Mỹ thường xuyên được tổ chức những hoạt động vui chơi giải trí. Hằng ngày, họ được cho ra sân phơi nắng, chơi bóng chuyền, bóng rổ hay bi-a, đọc sách báo và nghe tin tức - kể cả tin tức của Mỹ và phương Tây - qua đài phát thanh mà trại tiếp âm, hoặc chọn những tù binh có giọng đọc tốt để đọc cho tất cả mọi người cùng nghe. Để các tù binh có phương tiện chơi thể thao thường xuyên, trại phải nhờ đến sự giúp đỡ của đồng chí Tạ Đình Đề, người phụ trách xưởng sản xuất dụng cụ của Tổng cục Thể dục thể thao. Thậm chí để giúp một số tù binh có bệnh về mắt có thể đọc được sách báo bình thường, Ban chỉ huy trại đã phải thửa khá nhiều cặp kính thuốc. Đặc biệt, trong các ngày lễ, ngày Tết của Mỹ như ngày Độc lập vào ngày 4 tháng 7, ngày Lễ Tạ ơn, Noel hay Tết Dương lịch, tôn trọng tín ngưỡng của các tù binh, trại còn cho mời cả mục sư Bùi Hoàng Thử đến làm lễ theo nghi thức tôn giáo cho số người theo đạo.Thỉnh thoảng, trại lại cho mời các nghệ sĩ của đoàn văn công Tổng cục Chính trị đến biểu diễn cho bộ đội và cho cả tù binh Mỹ cùng thưởng thức.

  1. Trao Trả Tù Binh Phi Công Mỹ Theo Hiệp Định Paris

Trước khi Quân đội Mỹ tiến hành cuộc tập kích chiến lược 12 ngày đêm vào Hà Nội, Hải Phòng và nhiều địa phương khác, ngày 25 tháng 9 năm 1972, để bày tỏ thiện chí và mong muốn hòa bình, Chính phủ Việt Nam đã phóng thích tại Hà Nội một số phi công Mỹ. Trước thiện trí đó từ phía Việt Nam, Mỹ vẫn bội ước để vãn hồi tình thế, vẫn tiếp tục leo những nấc thang phá hoại chưa từng có ở miền Bắc Việt Nam, muốn biến miền Bắc Việt Nam quay về thời kỳ đồ đá. Chỉ sau khi âm mưu thâm độc đó thất bại, ngày 27/01/1973, Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.

Tin tức về Hiệp định Paris đã được lãnh đạo Trại giam Hỏa Lò công khai phổ biến đến các phi công Mỹ. Họ đều háo hức mong đợi đến ngày được trở về. Trong khoảng thời gian này, phi công được tự do ra sân chơi thể thao cũng như tham gia nấu ăn theo sở thích của mỗi người.

Thực hiện theo nội dung của Hiệp định Paris, toàn bộ phi công Mỹ bị giam tại Trại giam Hỏa Lò cũng như ở các địa điểm khác đã được Chính phủ Việt Nam trao trả cho Chính phủ Mỹ. Trước khi về nước, họ được nhận lại đủ tư trang và còn được Chính phủ Việt Nam trang bị những đồ dùng cá nhân như: quần, áo, giày, túi xách. Phi công Mỹ cũng được tặng những món quà kỷ niệm về đất nước Việt Nam như: đôi dép cao su, nón Bài thơ, điếu cày, tranh…

Trong rất nhiều món quà mà Chính phủ Việt Nam đã chuẩn bị để dành tặng phi công Mỹ trước khi về nước, Hạ sĩ Lục quân Robert P. Chenoweth khi được trả tự do lại đề xuất với cán bộ trại giam cho ông xin một lá cờ Việt Nam để làm kỷ niệm, vì theo ông lá cờ đỏ sao vàng đã trở thành biểu tượng đặc biệt cho tất cả những gì ông học được trong suốt quá trình bị giam giữ. Đồng thời nó cũng giúp cho ông  nhớ về cuộc đấu tranh trường kỳ bảo vệ độc lập của dân tộc Việt Nam anh hùng. Hay có những người lại tỏ ra lưu luyến trước khi về nước như trường hợp của phi công Alfonso Ray Riate. Ông đã viết thư và gửi tặng ông Trần Trọng Duyệt chiếc tẩu hút thuốc lá được làm từ vỏ tuýp thuốc đánh răng với mong muốn mỗi lần ông hút thuốc vừa đỡ hại sức khỏe vừa nhớ đến mình. Hay có những phi công còn ghi tên, địa chỉ nhà riêng của mình gửi lại cán bộ quản giáo trại giam với  hy vọng: Nếu như có điều kiện, họ rất mong được đón tiếp những người đã chăm sóc họ trong những tháng ngày ở Việt Nam ngay trên đất Mỹ.

Từ Trại giam Hỏa Lò, những người lính phi công được đưa tới sân bay Gia Lâm thuộc ngoại thành Hà Nội bằng xe quân sự. Các đợt trao trả phi công Mỹ vào tháng 2 và tháng 3 năm 1973 đều có sự giám sát của Ủy ban Liên hợp Quân sự bốn bên. Sau khi đại diện Chính phủ Việt Nam và đại diện Chính phủ Mỹ hoàn tất các thủ tục trao trả, các phi công bước lên những máy bay vận tải quân sự Lockheed C-141 Starlifter của Không quân Mỹ đã đậu sẵn tại sân bay Gia Lâm. Những chiếc máy bay này làm nhiệm vụ chuyên chở tù binh hồi hương. Sau khi trở về nước, trước những tin đồn về tù nhân Mỹ ở Việt Nam bị đánh đập hay tra tấn và đối xử tàn nhẫn, có những người như Đại tá Hải quân Walter Eugene Wilber đã trả lời phỏng vấn của Đài Truyền hình Quốc gia Mỹ rằng: “Tôi không hề bị đánh đập hay bị đối xử tàn nhẫn như những gì chúng tôi tưởng tượng trước đó”. Cuộc đối thoại của Walter Eugene Wilber cùng với sự nỗ lực của nhiều người khác đã góp phần làm thay đổi suy nghĩ của những người dân Mỹ về chiến tranh Việt Nam. Làn sóng phản đối chiến tranh của người dân Mỹ từ đó mà cũng tiếp tục dâng cao và đạt được nhiều thành công.

  1. Chung Tay Hàn Gắn Vết Thương Chiến Tranh, Xây Đắp Tình Hữu Nghị

Ngay từ năm 1973, Chính phủ Việt Nam đã chủ động trong việc tìm kiếm và trao trả hài cốt quân nhân Mỹ bị mất tích trong chiến tranh. Năm 1989, Chính phủ Hoa Kỳ đã phối hợp với Việt Nam trong các hoạt động tìm kiếm. Những cuộc “trở về” này tuy không thật trọn vẹn thế nhưng đã phần nào hàn gắn và xoa dịu được những đau thương của chiến tranh.

Kể từ năm 1995, quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ ngày càng phát triển, đạt được nhiều bước tiến dài trên các lĩnh vực: chính trị, an ninh, quốc phòng, hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư. Ngày hôm nay, nhiều phi công Mỹ khi quay trở lại Việt Nam và gặp lại những “đối thủ” năm xưa, đồng thời họ cũng trở lại thăm nhà tù Hỏa Lò bởi nơi đây đã trở thành một phần trong ký ức của họ. Những hoạt động này đã góp phần xây đắp sự hợp tác bền lâu, thắt chặt tình hữu nghị giữa hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ. Khi kể về với những kỷ niệm ở nơi mình từng bị giam, chính sách nhân đạo của Chính phủ Việt Nam đã áp dụng đối với phi công Mỹ và sự kiên cường, anh dũng chiến đấu của người Hà Nội trong chiến tranh, Hạ sĩ Lục quân Robert P. Chenoweth đã không kìm nổi những giọt nước mắt xúc động. Tất cả đã khiến cho ông cảm kích và hiểu hơn những giá trị tốt đẹp của cuộc sống này.

Chiến tranh đã qua đi nhiều năm, nhưng ký ức về niềm vui chiến thắng vẫn còn đọng mãi. “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” không chỉ là ký ức hoang tàn, đổ nát của phố Khâm Thiên, bệnh viện Bạch Mai hay ga Hà Nội, mà còn là dịp để những phi công Mỹ nhớ lại về khoảng lặng trong cuộc đời, giúp mỗi người thêm hiểu hơn về sự khốc liệt, tàn phá của chiến tranh, để cùng góp sức xây dựng Thế giới hòa bình, như lời của Đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên tại Việt Nam Douglas B. Peterson nói: “Di tích Nhà tù Hỏa Lò đã có giá trị làm sống lại trong chúng tôi những ký ức của chiến tranh. Nhưng giờ đây chúng ta đang cùng hướng về tương lai hòa bình”.

Tác giả bài viết: Phạm Hoa

Nguồn tin: Báo điện tử Dân Trí

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

HCTTE
VĂN PHÒNG CÔNG TY
HCTTE
LOGAN OF HCTTE
Thống kê
  • Đang truy cập2
  • Hôm nay191
  • Tháng hiện tại2,070
  • Tổng lượt truy cập5,539
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây